CẢM NHẬN CỦA TÔI SAU KHI ĐỌC BÀI “Ý NGHĨA CỦA SỐ 7”
“Nguời số 7 có khuynh huớng có những giấc mơ đáng chú ý ” . Tôi thuờng nằm mơ – mà một số báo truớc việc sẽ xảy ra .
“Một cách kín đáo , họ có thích thú mảnh liệt về những bí mật thuộc về bí
truyền (esoteric) , thần thoại , phi thuyền không gian hay vật lạ bay
trong không gian (U.F.O.) . . . và toàn bộ cánh rừng của điều chưa biết (the unknown) “ . Lúc
ở Việt Nam tôi mê đọc sách về khảo cổ . . . các nền văn minh đã biến
mất như cổ Ai Cập, châu Atlantis . . . những cuộc thăm viếng của nguời
ngoài trái đất . . . cảm giác ngoại giác quan như thần giao cách cảm . .
. tử vi của nguời Da Đỏ Mỹ . Qua Mỹ , tôi nghiên cứu Lý Thuyết Số mà
bài “Ý nghĩa của số 7 “ là một ví dụ . Tôi có nhiều sách đến độ rất ngại
dọn nhà và rất xứng đáng với danh hiệu “mọt sách “(bookworm) .
“Họ thuờng có khả năng trực giác và tiên tri “ . Lúc
mản khóa sĩ quan vào năm 1969, do có quen biết nên tôi đuợc về tiểu
khu Gia Định . Vì là nguời sau cùng (của đại đội) lên chọn đơn vị nên
lúc về đại đội , khi các bạn hỏi , tôi nói tôi chọn sư đoàn 7 bộ
binh ; các bạn nói tôi “chịu chơi” . Sau đó , tôi lại về làm báo chí
quân sự tại Biệt khu Thủ đô . Tới năm 1973 , tôi phải hoán đổi với một
SQ của SĐ 7 vì
tôi nhẹ gánh gia đình . Tôi có rất nhiều câu chuyện về khả năng tiên
tri và có duyên với số 7 , nhưng xin kể vào dịp khác .
“Họ
có một phần nào đó sự hấp dẩn làm cho nguời khác cảm thấy dể chịu/giảm
đi sự nóng giận ( and a certain quieting , calming magnetism which has a
great influence over others) . Thuờng thuờng , sự xuất hiện đơn thuần
của họ cũng có tác dụng làm cho nguời đang bị rối loạn cảm thấy dể chịu “
. Tôi thuờng xuyên cảm nhận khả năng này .
“ Nguời số 7 hoặc là sẽ du lịch rất nhiều vào một thời gian nào đó trong cuộc đời hay là đọc rất nhiều sách về nhửng dân tộc và đất nuớc xa lạ “.
Truớc khi qua Mỹ (vào năm 1994) , tôi làm thông dịch cho một nguời
Pháp nên đã du lịch nhiều nơi ở VN như Hải Phòng , Hà Nội , v.v...Riêng
thời gian truớc 1975 tôi mê các nguyệt san của Hội Địa Lý Quốc Gia Mỷ
đến độ đã ăn cắp tiền của cha mẹ để mua bộ này , phải dùng 1 xe ba
gác để chở về nhà . Gồm toàn bộ những số từ đầu thập niên 1950 , kể cả
bản đồ . Thời gian ở tù , thỉnh thoảng tôi đuợc gọi là tự điển sống
củng là nhờ kiến thức thâu thập từ tạp chí này .
“Tuy vậy , họ quan tâm rất ít về sở hửu vật chất hoặc tích lủy nhiều của cải “ . Điều này củng đúng với tôi .
“Họ ban ân/giúp đở cho kẻ khác với thiện ý xuất phát từ sự thấu hiểu về tình cảm của họ truớc nỗi đau khổ của kẻ khác (they
bless others with the grace of their sympathetic understanding of pain
and suffering) , do vậy bạn bè , thân nhân , đồng nghiệp thuờng nhờ họ
giải quyết những khó khăn của mình “. Tôi
đã giúp đở nhiều nguời từ lúc còn ở VN . Những ai cần tiền , nếu bị
nguời khác từ chối thì gặp tôi . Như cậu Tâm , Hùng , Sĩ (em ruột) , và
một số bạn ở Mỹ . Củng vì thuơng hại anh chủ nhà nơi tôi thuê phòng mà
tôi đã từ chối căn hộ , mà cán sự xã hội định cấp cho tôi . Nhiều nguời gọi tôi là khùng vì vụ này mặc dù lúc đó tôi đang nằm đất ở phòng khách . Tôi thuờng coi nỗi khổ của kẻ khác như nỗi khổ của mình mà danh từ chuyên môn gọi là đồng cảm (empathy) .
Thật ra còn có một số đặc điểm khác của nguời số 7 đuợc mô tả chi tiết trong bài “ Ý nghĩa của số 7 “ cũng giống với những cảm nghiệm mà tôi đã có đuợc . Tuy nhiên , vì bài viết có hạn , tôi chỉ nêu những tuơng đồng nổi bật và quan trọng mà thôi . Hẹn thư sau . Chào bạn ,
San Jose ngày 03/05/2010 lúc 6:23 tối .
No comments:
Post a Comment